Tuesday, July 14, 2015

Bill Hayton - BIỂN ĐÔNG (Chương 9: Giải quyết tranh chấp)

Chương 9

Hợp tác và những điều trái ngược:

Giải quyết các tranh chấp

Cooperation and its Opposites
Resolving the Disputes


CHIẾC SARIMANOKIS hứa hẹn mang nhiều hi vọng tới nhưng nó chẳng mang được gì nhiều cho Eric Palobon trong chuyến đi này. Với một chuyến trúng luới, thuyền của ông có thể mang về khoảng 30 cá ngừ với con lớn nhất cân nặng 100 kg. Lần này ông chỉ bắt được 6 con và con lớn nhất chỉ nặng 60 kg. Con chim thần thoại sơn trên mũi quét sơn trắng không thể bù đắp cho những tàn phá tác động lên dân số cá ngừ ngoài biển. Eric là người thừa kế hiện đại cách sống của người Nusantao và chiếc banca của ông chỉ hơn đôi chút chiếc xuồng có thành cao với giàn cân bằng dài bằng tre dày chìa ra hai bên để giữ cho nó khó bị nghiêng đổ trong vùng biển nhấp nhô của Biển Đông. Buồng lái trông chỉ vừa đủ lớn cho ba người nhưng Eric nói rằng trên tàu anh có 12 thành viên trong hai tuần qua, sống nhờ gạo và những gì họ đã bắt được. Một cột buồm ở giữa đỡ các tấm bạt có thể cuộn lại như một chiếc lều lớn dùng che nắng che mưa cho toàn bộ con thuyền ọp ẹp nhưng khi chạy vào vịnh Manila người trên thuyền đã cuộn chúng lại và trang trí bằng quần áo mới giặt trên các dây chằng thay vào.

Chiếc banca có giàn cân bằng bằng tre hai bên

Khi thấy chiếc thuyền lướt vào bến, năm ba chàng trai háo hức từ trên bờ nhảy lộn xuống nước biển đục hi vọng có được một ít tiền quà cho việc giúp đưa số cá bắt được lên bờ. Các bạn hàng tụ tập xung quanh cửa vào nhà kho khổng lồ dù biết trước sẽ có một vài cãi vã xảy ra. Một sợi dây thừng được ném lên bờ và con cá ngừ thứ nhất đã được hạ xuống một chiếc bè làm từ hộp polystyrene cũ quấn cùng với lưới. Đứng dạng chân trên cá ngừ vàng rất lớn, một trong những chàng trai đã kéo món hàng quý giá này, đổi tay này qua tay kia, hướng về phía nhà lồng của cảng cá Navotas; 80 % lượng cá ăn của 12 triệu người dân sinh sống tại nội thành Manila đi qua các tòa nhà này. Đó là cảng cá lớn nhất trên một đất nước ăn rất nhiều cá.[1] Eric mong cho mỗi con cá ngừ 60 kg của mình bán được khoảng 200 tới 300 peso mỗi kg: khoảng $1 600 tới $2 000 chia ra cho 12 người trong 14 ngày làm việc - mỗi người $10 một ngày. Không phải là một mức sống tệ - gấp đôi mức trung bình quốc gia.

Philippines là một nơi lí tưởng cho việc bắt cá ngừ vây vàng. Chúng di chuyển từ vùng Biển Đông vào Biển Sulu từ tháng 6 đến tháng 8 và một lần nữa, từ tháng 8 và tháng 10, đi xuyên qua một số các khoảng trống tương đối hẹp giữa chuỗi đảo. Đất nước này cung cấp một phần tư cá ngừ trên kệ các siêu thị ở Mĩ.[2] Và thị trường này thực sự đã bị cám dỗ với một số loài cá rất lớn. Loanh quanh bến gần chỗ chiếc banca có giàn thăng bằng của Eric là một tàu đánh cá ngừ thuộc loại rất khác. Chiếc The Lake Lozada lớn hơn nhiều nhưng trong tình trạng yếu kém để đi biển hơn. Có thể thấy thân nó đã từng được sơn xanh, dù bây giờ hầu như hoàn toàn loang lỗ. Ở nhiều chỗ, ngay phía trên ngấn nước, rỉ sét đã ăn những lỗ lớn qua lớp kim loại. Từ cái sàn dùng phóng lao trên mũi tàu, có thể đoán rằng con tàu đã từng là một tàu săn cá voi của Nhật nhưng nó không còn có vẻ có khả năng đánh bắt bất cứ thứ gì bây giờ. Theo những người làm việc trên tàu này, công việc của The Lake Lozada từng ở  ngoài biển, mỗi lần kéo dài cả năm, kéo đuợc 300-500 cá ngừ mỗi ngày. Vào những ngày trúng lưới, con số này có thể lên tới 2 000. Các tàu vận chuyển hai ngày tới gặp nó một lần để chuyển số cá bắt được tới các nhà máy đóng hộp trên bờ, do đó không cần phải giảm bớt tốc độ trong quá trình thu hoạch.

Không ai biết chính xác tình trạng số lượng của nguồn cá ngừ ở Biển Đông vì các quốc gia ven biển này không thể đồng ý hợp tác về một cuộc điều tra thích hợp. Trong mắt họ, cho phép một nước khác cùng quản lí nguồn cá mang nguy cơ của việc làm mạnh thêm yêu sách chủ quyền của đối phương. Trong khi đó, tình hình có vẻ đang đi tới thảm họa. Các ước lượng tốt nhất do Trung tâm Phát triển Nghề cá Đông Nam Á, một tổ chức liên chính phủ thành lập năm 1967 để cố gắng giải quyết đúng y loại vấn đề này, đưa ra. Họ chỉ có thể đo lường số cá bắt được chứ  không phải số cá vẫn còn trong biển. Năm 2001 ngư dân trong khu vực ghi nhận tổng sản luợng đánh bắt cá ngừ là 870 000 tấn. Đến năm 2008 con số này đã tăng gấp đôi lên 1,9 triệu tấn, chiếm khoảng 14 % sản lượng đánh bắt tất cả các loại cá trong khu vực Đông Nam Á.[3] Nhưng vào năm 2010 cá ngừ đã trở nên khó tìm thấy hơn và sản luợng đánh bắt được đã giảm xuống còn 1,6 triệu tấn.

Không chỉ là cá ngừ thôi: tất cả các loài khác đang chịu áp lực. Khoảng 500 triệu người sống quanh bờ Biển Đông và khi dân quê di cư ra thành phố và trở nên giàu có thì nhu cầu về cá của họ tăng nhanh. Khi càng có nhiều cá bị kéo lên khỏi biển thì sẽ càng trở nên khó khăn hơn để đánh bắt số cá còn lại. Năm 1980 có 584 000 người đăng kí khai thác cá tại Philippines. Đến năm 2002 có 1,8 triệu. Cũng trong thời gian này, sản lượng đánh bắt trung bình của một ngư dân quy mô nhỏ ven bờ giảm từ 20 kg xuống còn 2 kg- hầu như chỉ ở mức đủ để sống còn.[4] Ở Trung Quốc, khi thu nhập tăng trong các năm từ 1970 đến 2010, tỉ lệ cá trong chế độ ăn uống quốc gia đã tăng lên 5 lần tới mức 25 kg mỗi người một năm. Khi đất nước giàu lên thì con số này sẽ tăng cao hơn nữa: Ở Indonesia con số này là 35 kg, ở Đài Loan là 45 kg và Nhật Bản là 65 kg. Làm trầm trọng thêm vấn đề này là việc Trung Quốc đã trở thành một nước xuất khẩu cá lớn cũng trong thời gian đó. Mặc dù 70 % nguồn cung cấp cá của Trung Quốc là từ cá nuôi, nhưng theo thống kê chính thức của Trung Quốc thì tổng sản lượng đánh bắt ở biển tăng gấp 4 lần từ 3 triệu tấn năm 1978 lên 12 triệu tấn năm 1998 và vẫn còn ở mức độ đó.[5] Việc lượng cá đánh bắt được hàng năm đều đặn ăn khớp với các mục tiêu công bố đã khiến một số chuyên gia nghi ngờ về tính trung thực của những con số này, đặc biệt là kể từ khi có báo cáo năm 2008 của Cục Hải Dương Quốc Gia ước tính mức độ bền vững của lượng đánh bắt được chỉ ở mức 8 triệu tấn. Khi lượng cá bắt đuợc tăng lên thì nguồn cá giảm xuống.

Zhang Hongzhou thuộc Trường Nghiên Cứu Quốc Tế Rajaratnam ở Singapore đã nghiên cứu sự phát triển của vấn đề này. Ông thấy rằng những nỗ lực chính thức để giảm kích cỡ của các đội tàu đánh cá Trung Quốc thông qua luật định và bồi thường đã thất bại. Khi chính sách này bắt đầu vào năm 1998 thì giờ đây không những có nhiều tàu hơn mà chúng còn lớn hơn và mạnh hơn. Kết quả là tàu thuyền ngày càng đang đi ra biển xa hơn. Năm 1988, 90 % ngành công nghiệp này của Trung Quốc chỉ đánh bắt gần bờ. Đến năm 2002 tỉ lệ này đã giảm xuống còn 64 %, với hơn một phần ba đội tàu tiến ra khơi xa. Xu hướng này đang tiếp tục. Đến năm 2006, 60 % lượng cá bắt được ở tỉnh Quảng Đông là từ ngoài khơi. Nhìn chung, theo thống kê chính thức, tổng số cá bắt đuợc mang lên đất Trung Quốc không tăng lên - nhưng tỉ lệ số cá bắt được ở xa đất Trung Quốc đã tăng gấp ba lần. Khi tàu Trung Quốc đánh bắt xa cảng của họ, họ  gặp phải cảnh sát biển và thuyền viên đối thủ của các nước khác. Truyền thông Trung Quốc đã ghi nhận hàng nghìn trường hợp cáo buộc các tàu đánh cá của Trung Quốc bị quấy nhiễu trong hơn hai thập kỉ qua.[6]

Điều này cũng đúng cho thuyền viên tàu cá của các nước khác. Kể từ năm 1999, trong một nổ lực cố khôi phục nguồn cá, Trung Quốc đã áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá mười tuần hàng năm từ tháng 5 đến tháng 8 ở khu vực phía Bắc Quần Đảo Trường Sa (quy định là trên vĩ tuyến 12° N). Trong khi lệnh cấm tự nó có thể có ý nghĩa cao về bảo tồn, việc áp đặt đơn phương đã ngăn các nước khác tham gia vào, vì họ sợ rằng việc phục tùng có thể được hiểu như sự công nhận về chủ quyền của Trung Quốc. Kết quả là, mỗi năm đều tăng thêm các cuộc đụng độ giữa ngư dân Việt Nam và Philippines đi vào khu vực bị đóng và các cơ quan thẩm quyền về biển Trung Quốc cương quyết thực thi các quy định của họ vừa nhân danh chủ quyền vừa nhân danh việc cá đẻ trứng. Nhà chức trách Trung Quốc quảng cáo ồn ào về tác động của lệnh cấm lên các đội tàu đánh cá của họ. Trong năm 2013, theo truyền thông chính thức, nó ảnh hưởng tới khoảng 9 000 tàu thuyền đăng kí tại Tỉnh Hải Nam và 14 000 ở Tỉnh Quảng Đông. Đền bù đã được trả cho những người bị mất thu nhập do việc phải ở lại tại cảng, tất nhiên, không cho thuyền viên từ các nước khác.[7]

Tuy nhiên lệnh cấm này không áp dụng cho các tàu thuyền Trung Quốc có giấy phép chính thức đi đánh cá trong vùng biển tranh chấp xung quanh quần đảo Trường Sa. Thông điệp cho họ rất rõ – cứ tiến vào các khu vực tranh chấp, treo cờ [TQ] và mang về nhiều cá ngừ. Trợ cấp được phát cho ngư dân Trung Quốc nào đã nâng cấp tàu thuyền để có thể đi các khoảng cách xa hơn đến các đảo này– máy tàu càng lớn thì họ càng nhận được nhiều và các chủ tàu được trả thêm cho mỗi chuyến mà họ đi tới đó.[8] Một bài báo trên tờ Straits Times trong tháng 8 năm 2012 đã mô tả việc các quan chức Trung Quốc đến viếng cảng Tanmen (Đàm Môn) trên đảo Hải Nam để khuyến khích ngư dân đi tới tận Trường Sa như thế nào.[9] Trong đợt cấm năm 2012, Sở Hải Dương và Thủy Sản tỉnh Hải Nam tổ chức đội tàu đánh cá lớn nhất từ trước đến nay ở Trung Quốc đi tới quần đảo này : 30 tàu cùng một tàu tiếp tế 3 000 tấn. Phóng viên đã được cho đi cùng để thông điệp này chắc chắn đến với thế giới. Trong năm 2013 thêm 30 tàu đã được phái đi trong thời gian cấm và người đứng đầu Sở Thủy sản, Huang Wenhui (Hoàng Văn Huy), nói với hãng tin Tân Hoa Xã rằng mục đích cuối cùng là nhằm khám phá cách ‘khai thác các nguồn tài nguyên vùng biển quốc tế (high-seas) một cách có hệ thống’. Các cuộc đụng độ về đánh bắt xung quanh quần đảo Trường Sa là kết quả của việc đánh bắt quá mức xung quanh bờ biển Trung Quốc cộng với chính sách cố ý phát triển nguồn cung mới.

Tuy nhiên, chính sách này bỏ qua thực tế rõ ràng rằng các đội tàu đánh cá khác đã khai thác quá mức quần đảo Trường Sa để nuôi sống dân số ngày càng tăng của chính họ. Ít ra là từ năm 1994, các nhà nghiên cứu đã thấy khó bắt đuợc cá lớn ở một số các rạn san hô ngoài khơi bờ biển Malaysia và Philippine.[10]  Ngay cả ở những nơi lượng cá bắt được còn ổn định, vẫn phải cần bỏ thêm nhiều công sức vào. Từ năm 1995 đến năm 2005, nguồn cá ngoài khơi Sabah bị suy sụp 70 %. Vịnh Thái Lan cung cấp một cảnh báo nghiêm túc về những gì có thể kéo theo. Ngay từ năm 1990, sau hai thập kỉ đánh bắt quá mức, các đoàn đánh cá đã báo cáo rằng 85 % số cá họ bắt được là cá tạp. Với thu nhập không đáng tin cậy ở vùng biển nhà, ngư dân Thái Lan được biết đến là những kẻ đánh bắt trộm lớn nhất khu vực, với hàng ngàn người bị bắt giữ hàng năm khi cố kiếm sống trong EEZ của các nước khác.[11] Biển Đông đang tiến đến số phận tương tự, đe dọa nguồn cung cấp thực phẩm của nửa tỉ người. Các mô hình thống kê vĩ mô gợi ra rằng nguồn các loài cá lớn hơn đã giảm hơn một nửa từ năm 1960 đến năm 2000. Cá đã từng đầy rẫy khắp Biển Đông, ngoại trừ ở các khu vực quá sâu. Nhiều khu vực rộng lớn bây giờ coi như không có cá về mặt thương mại. Phần duy nhất của Biển Đông mà nguồn cá vẫn còn trong tình trạng tốt hơn là ngoài khơi Brunei - ở đó sự có mặt của rất nhiều giàn khoan dầu đã ngăn việc đánh bắt hủy diệt quy mô lớn. Có thể làm gì? Có thể giải quyết các tranh chấp xong trước khi quá muộn để cứu nguồn cá không?

Giáo sư John McManus đã bỏ ra hai thập kỉ nghiên cứu đời sống dưới nước của khu vực và bây giờ là Giám Đốc Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu về Rạn San Hô thuộc Đại học Miami. McManus tin rằng các đảo đang có tranh chấp đóng một vai trò tối quan trọng trong việc giữ cho toàn bộ Biển Đông còn sự sống. Cá sinh sản ở đó rồi các dòng hải lưu phát tán trứng và cá con ra xa xung quanh khu vực. ‘Các rạn san hô trong quần đảo Trường Sa là một trong những nơi có sự đa dạng về chủng loại cao nhất thế giới’, ông nói với tôi. Các bờ biển xung quanh bị khai thác quá mức, và có khả năng là việc suy sụp dân số tại chỗ của một số loài đang bị ngăn lại nhờ các đợt cá con từ Trường Sa và các rạn san hô khác ở Biển Đông dạt tới. Trong nhiều năm McManus đã lập luận rằng quần đảo Trường Sa phải trở thành một công viên bảo tồn biển vì các lợi ích của toàn khu vực. Qua việc bảo tồn cái mà trên thực tế một bãi ươm cá khổng lồ, một công viên hòa bình có thể cung cấp nguồn cá con cho phép dân số cá ở các nơi khác phục hồi, miễn là việc đánh bắt cá ở các nơi khác trở nên biết giữ gìn hơn.

Có một nỗ lực mới gần đây trong việc cố tạo ra một cái gì đó tương tự. Tháng 3 năm 2001 tất cả các bên tranh chấp ở Biển Đông đã đồng ý gác lại những khác biệt và hợp tác trong một dự án $32 triệu do Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc lãnh đạo về việc ‘đảo chiều xu hướng suy thoái môi trường ở Biển Đông và Vịnh Thái Lan’. Dự án thực hiện trong 6 năm từ 2002 đến 2008 và đã đạt được một số thành công. Tuy nhiên, đánh giá cuối cùng của  dự án kết luận một cách buồn bã rằng ‘cuối cùng, vẫn chưa thành công trong việc lôi kéo Trung Quốc và Malaysia tham gia vào các vấn đề vốn liên quan đến các thoả thuận đa phương, đặc biệt là trong trường hợp đàn cá xuyên biên giới’.[12] McManus khẳng định rằng. ‘Sự tham gia của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đảm bảo rằng vấn đề của quần đảo Trường Sa sẽ không được đưa lên chính thức trong đó dự án đó’, ông nói với tôi. Nhóm nghiên cứu của Liên Hiệp Quốc thấy rằng gần như không thể phát triển các dự án liên quan đến nhiều hơn một nước trong một lúc và không dự án nào được thực hiện tại các khu vực có tranh chấp của Biển Đông. Mục tiêu dự kiến - là tạo ra ‘các khu nguyên sinh’ (refugium) trên biển để bảo vệ các địa điểm cho cá đẻ trứng và phát triển, chỉ thành số không.

Liên minh Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên đã bỏ phiếu ủng hộ ý tưởng về ‘công viên hòa bình’ và, theo McManus, ‘nhiều nhà khoa học và các nhà bảo tồn thuộc khu vực ở tất cả các nước yêu sách đều rất ủng hộ, đặc biệt là ở Philippines, Đài Loan và Việt Nam’. Vấn đề nằm ở cấp chính quyền. Chỉ có một trong các bên tranh chấp, chính phủ ở Đài Loan, chính thức ủng hộ mặc dù Tổng thống Ramos của Philippines cũng có lần lên tiếng ủng hộ. ‘Hầu hết các nhà lãnh đạo chính trị đều không sẵn lòng mở cuộc đối thoại với Trung Quốc [Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa] về vấn đề này’, McManus than vản. ‘Tiềm năng dầu trong vùng trũng này cũng làm vấn đề thêm phức tạp, mặc dù biết rằng dầu có nhiều và ít đắc đỏ để khai thác dọc theo khu vực thềm lục địa của Biển Đông hơn là ở các vùng nước sâu giữa quần đảo Trường Sa’. Kết quả là thật khó có thể lạc quan về khả năng các nước cùng hợp tác với nhau để ngăn chặn sự sụp đổ của ngành thủy sản ở Biển Đông.

Trên lí thuyết, nguồn cá sẽ dễ dàng quản lí hơn là dầu và khí đốt vì hai lí do: chúng có thể tái tạo và chúng di chuyển. Sẽ là chuyện vô nghĩa đối với một quốc gia cố quản lí đàn cá di cư. Khắp trên thế giới, các tổ chức quản lí nghề cá khu vực đã được tạo ra để các nước có thể hợp tác trong việc giám sát các nguồn cá mà tất cả họ đều phụ thuộc vào. Ở Đông Nam Á, tổ chức có kỉ lục tốt nhất về nghiên cứu và hành động để bảo vệ nguồn cá của khu vực là Trung Tâm Phát Triển Nghề Cá Đông Nam Á.(Southeast Asian Fisheries Development Center). Trung Quốc có thể gia nhập dễ dàng, nhưng họ đã chọn cách đứng ngoài. Với việc không sẵn lòng tham gia các sáng kiến tương tự trong khu vực trong quá khứ, có vẻ không chắc rằng Trung Quốc sẽ tham gia trong tương lai. Bắc Kinh trên nguyên tắc không phản đối các thỏa thuận về nghề cá. Họ đã kí kết luận thoả thuận với Nhật Bản năm 1997, với Hàn Quốc năm 2000 và với Việt Nam, cũng năm 2000. Họ đã tổ chức một vòng đàm phán ở' Ủy ban Hỗn hợp Philippines-Trung Quốc về thủy sản’ năm 2005 nhưng sau đó không có thêm gì nữa.[13] Điểm không thay đổi là việc họ từ chối thương lượng đa phương về bất kì vấn đề nào ở Biển Đông. Thỏa thuận với Việt Nam chỉ áp dụng cho Vịnh Bắc Bộ, một khu vực biển vốn chỉ có tranh chấp giữa hai nước này. Nhưng cá ngừ không tôn trọng các ranh giới quốc tế, do đó, các thỏa thuận song phương khó có khả năng giải quyết được vấn đề. Tất cả các nước quanh Biển Đông phụ thuộc vào nguồn cung cấp cá giá rẻ để nuôi dân của họ. Trong tình hình không có bất kì thỏa thuận nào để bảo vệ các nguồn cá, việc tăng khai thác ngắn hạn đang đặt tất cả các nước trong khu vực trước nguy cơ về một cuộc khủng hoảng lương thực lớn. Nếu Trung Quốc và các nước láng giềng không thể đồng ý về các bước cơ bản để tránh các nguy cơ chết đói thì làm thế nào họ lại đạt được thỏa thuận về các vấn đề rộng lớn hơn về chủ quyền và lãnh thổ?

**********

Một thỏa thuận lâu dài về chủ quyền và lãnh thổ sẽ lời đáp cho nhiều lời cầu nguyện xung quanh khu vực, nhất là ở Philippines. Với tư cách là Tổng Thư Kí Ủy ban về các Vấn Đề Biển và Đại Dương, Henry Bensurto là bộ não đằng sau chính sách của Philippines trong tranh chấp Biển Đông. Giọng nói mềm mại và đôi mắt đen của ông che dấu một quyết tâm sắt đá. Các trận chiến trong thuyết phục các cơ quan Philippines điều chỉnh yêu sách biển của nước này phù hợp với luật pháp quốc tế, và sau đó là bảo vệ những yêu sách đó tại rất nhiều tại hội thảo quốc tế, đã tạo nhiều đốm bạc vào mái tóc trước đây đen tuyền của ông. Vào ngày chúng tôi gặp nhau các đốm bạc này khớp với các sọc xám được quệt lên trán ông theo nghi thức ngày Thứ Tư Lễ Tro Công Giáo. Bensurto cũng có lòng tin vào luật quốc tế: ông tin rằng nó có thể phục hồi các cơ hội hòa bình ở Biển Đông. Dưới sự dẫn dắt của ông Manila đã chuyển cơ sở của yêu sách lãnh thổ từ tiền đề trước đó rằng Philippines thừa hưởng nó từ Đô Đốc Tomas Cloma, người phát hiện ra quần đảo này (xem Chương 3) sang một tiền đề căn cứ vào công ước về Luật Biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS). Năm 2009, ông đã thúc đẩy cho ra một Luật mới về đường cơ sở của Philippines, chấm dứt yêu sách của đất nước theo đa giác khổng lồ của Clomas cho ‘nhóm đảo Kalayaan’ vừa chuyển cho nó phù hợp với UNCLOS. Sau đó, vào năm 2011, Bensurto đưa ra một hi vọng mới. Ông gọi nó là Khu vực Hòa bình, Tự do, Hữu nghị và Hợp tác (Zone of Peace, Freedom, Friendship and Cooperation hay ZoPFFC).

Điều cốt lõi của khu vực này là các bên tranh chấp trước nhất phải xác định rõ các khu vực biển nào là có tranh chấp và các khu vực nào là không có tranh chấp và chỉ sau đó mới chuyển sang việc giải quyết các tranh chấp. Các tranh chấp có hai loại. Một loại là ‘tranh chấp lãnh thổ’ - câu hỏi về ‘quyền sở hữu’ hợp pháp đối với mỗi thể địa lí ở Biển Đông. Loại kia là ‘tranh chấp biên giới biển’ - kích thước các ‘khu’ do mỗi thể địa lí tạo ra theo UNCLOS. Nếu một tòa án phán rằng một đảo cụ thể có thể duy trì sự sống của con người hay đời sống kinh tế thì toà sẽ phân cho nó một khu đặc quyền kinh tế (EEZ) có bán kính lên đến 200 hải lí; nếu họ phán quyết đó chỉ là một ‘đảo đá’ (rock) không thể duy trì sự sống của con người và kinh tế thì nó sẽ chỉ sinh ra một vùng lãnh hải tối đa là 12 hải lí và không có EEZ; và nếu ở trạng thái tự nhiên, nó sẽ nằm dưới mặt nước khi triều cao thì nó không tạo ra lãnh hải hay EEZ gì cả.

Không giống như các tiền nhiệm, Bensurto quyết định đi vào vấn đề thứ hai trước. Ông đề xuất khoanh vùng (enclave) khu vực tranh chấp bằng cách trước nhất xác định xem các thể địa lí nào có thể tạo ra lãnh hải 12 hải lí và sau đó vẽ ranh giới liên quan xung quanh chúng. Tiếp đó, ông đã cố gắng vẽ các ranh giới EEZ có khả năng. Sử dụng tiền lệ do Tòa công lí Quốc tế (ICJ) thiết lập trong phán quyết năm 2012 về vụ tranh chấp đảo giữa Colombia và Nicaragua, ông cho rằng rất khó có khả năng tòa án sẽ phân EEZ cho các đảo tranh chấp ‘về phía ngoài’ - nói cách khác, về hướng bờ biển của các nước bao quanh. Thế thì điều này sẽ thu hẹp các khu vực tranh chấp vào chỉ phần của Biển Đông gần các đảo. Phần này có thể được ‘khoanh lại’ - đặt sang một bên để thảo luận thêm về sau- do đó cho phép Philippines và tất cả các quốc gia ven biển khác tiến tới với việc phát triển các mỏ dầu và khí ngoài khơi của họ. Sau đó, các bên tranh chấp có thể cố gắng để đạt được một loại giải pháp hoặc thỏa thuận hợp tác nào đó trong khu vực được ‘khoanh lại’ đó. Tuy nhiên, nếu như một tòa án phán quyết rằng có một đảo nào trong đó được hưởng EEZ đầy đủ thì nó sẽ nuốt hầu hết khu vực đuợc khoanh lại này.

Vẻ bề ngoài, Khu vực Hoà bình, Tự do, Hữu nghị và Hợp tác đưa ra một con đường hoàn toàn thuận lẽ và hợp lí để tiến tới. Vấn đề duy nhất là việc - nó do Philippines đề xuất. Quan hệ của nước này với Trung Quốc dần dần trở nên lạnh nhạt sau khi Benigno Aquino trở thành tổng thống, đột ngột thành xấu đi trong cuộc đối đầu Bãi Cạn Scarborough vào giữa năm 2012 và chạm đáy ngày 22 tháng 5 năm 2013 khi Manila thông báo rằng trên thực tế, họ sẽ đưa kế hoạch Bensurto ra một tòa án quốc tế. Philippines đã yêu cầu Tòa Trọng tài Thường trực ở Hague phán quyết về các yếu tố chính của kế hoạch: liệu ‘đường chữ U’ có tương thích với UNCLOS không; liệu 5 trong số 8 thể địa lí do Trung Quốc chiếm đóng sẽ được coi là ngầm dưới nước và do đó không thể tạo ra lãnh hải hay EEZ không; liệu ba thể địa lí còn lại do Trung Quốc chiếm đóng chỉ là đảo đá không có yêu sách EEZ không; và liệu Philippines có quyền được hưởng EEZ trọn vẹn 200 hải lí , bất kể sự tồn tại của các thể địa lí khác đang có người ở ngoài khơi không.

Trung Quốc đã từ chối tham gia vụ kiện nhưng dù vậy tòa cũng đã bắt đầu thủ tục pháp lí và có thể sẽ đưa ra một phán quyết sớm nhất là trong năm 2015. Tuy nhiên, tòa không có quyền lực để thực thi phán quyết của mình. Luật sư Paul Reichler có văn phòng ở Washington thay mặt cho Philippines biết rõ điều này. Năm 1986, ông đã giúp chính phủ Nicaragua thắng vụ kiện Hoa Kì tại IJC. Tòa phán quyết rằng Mĩ trợ giúp cho phiến quân Contra chống chính phủ cánh tả của Nicaragua, và việc đặt mìn chống tàu tại bến cảng của họ là bất hợp pháp. Mĩ chỉ đơn giản là phớt lờ phán quyết này. Thay vào đó, Mĩ đã tài trợ liên minh chính trị cánh hữu giúp họ giành được chính quyền ở Nicaragua vào năm 1990 và hai năm sau đó hủy bỏ đòi hỏi bồi thường của nước này. Một chiến thắng của Philippines trong vụ kiện này có thể cũng phải trả một giá rất đắc, dù Henry Bensurto ít nhất sẽ có thể nắm một thanh kiếm chính nghĩa vừa được mài bén trong các cuộc thảo luận tương lai với đối tác Trung Quốc. Tuy nhiên, ngay cả khi Philippines cố gắng để làm rõ tình trạng pháp lí quốc tế qua vụ kiện, ở phía bờ bên kia của Biển Đông các nhà tư tưởng Trung Quốc đang cố tìm cách thay đổi các câu hỏi.

**********

Một số trong những câu hỏi này đang được phát triển trong một khuôn viên to lớn gồm các tòa nhà xây bằng gạch đỏ trên đảo Hải Nam, cách thành phố Haikou (Hải Khẩu) khoảng nửa tiếng lái xe. Khu phức hợp này giống như một chữ thập giữa một trường đại học và một khu nghỉ mát bãi biển. Nó chỉ cách những khu nghỉ mát bãi biển thật nằm viền theo bờ có các hàng cây của Biển Đông một quãng đường ngắn. Khu phố này có thể là một hình ảnh tiêu biểu cho chính cách tiếp cận của Trung Quốc đối với Biển Đông. Đất còn nguyên trinh được khảo sát và phát triển và trở thành không gian sống cho một dân số với khát vọng mới và những chân trời rộng lớn hơn. Một cảnh quan gồm các căn hộ cao cấp, chỗ ở thứ hai cho những người có nhiều thu nhập, nổi lên từ những cồn cát và ruộng lúa. Và ở giữa khu bất động sản nhà nước tài trợ này vươn bật lên là Viện Nghiên Cứu Nam Hải (Trung Quốc Nam Hải Nghiên Cứu Viện) và ở một trong hai tòa tháp của nó là chỗ của viện trưởng, Tiến sĩ Wu Shicun (Ngô Sĩ Tồn).

Trong những năm gần đây, tiến sĩ Wu đã trở thành gương mặt quen thuộc về chính sách ngoại giao Biển Đông của Trung Quốc. Kiểu tóc đứng đắn và nụ cười nồng ấm của ông làm tươi mát các hội thảo ở Washington và các hội nghị chuyên đề ở Singapore. Ông thể hiện một đường lối vững chắc trong việc bảo vệ chủ quyền ‘không thể tranh cãi’ của Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng các bài phát biểu của ông cũng hé lộ các uyển chuyển trong cách nghĩ  chính thức. Ông có vốn liếng chính trị hoàn hảo cho vị trí đó, đã thăng tiến trong hệ thống Đảng Cộng sản, từ Phó Bí thư Đoàn Thanh niên của Đại học Nam Kinh, lên Đảng bộ tỉnh Hải Nam và sau đó Giám đốc Báo Chí Sở Ngoại vụ Tỉnh Hải Nam. Ông rõ ràng được tin cậy để trình bày quan điểm chính thức của Đảng cho khán giả nước ngoài. Năm 1996 tỉnh Hải Nam đã lập ra một tổ chức mới, Viện Nghiên Cứu Biển Đông của Hải Nam, để thúc đẩy lợi ích của tỉnh và tiến sĩ Wu trở thành ông chủ đầu tiên của nó. Trong năm 2004, Bộ Ngoại giao ở Bắc Kinh đã quyết định bộ cũng có thể sử dụng các kĩ năng của Tiến sĩ Wu và cung cấp thêm tiền cùng bảo trợ chính thức để tổ chức này trở thành Viện Quốc Gia. Năm 2011 nó đã chuyển từ một toà nhà văn phòng ảm đạm tại Hải Khẩu đến khuôn viên mới cạnh bãi biển.

Viện này không phải là cơ quan duy nhất của Trung Quốc nhìn vào Biển Đông. Viện về các vấn đề biển Trung Quốc (được tài trợ bởi Cục Hải Dương Quốc Gia, trông coi Cảnh Sát Biển Trung Quốc) cũng nhìn vào các luận cứ pháp lí và lịch sử cho các yêu sách của Trung Quốc cũng như phát triển biển rộng hơn. Viện quan hệ quốc tế đương đại Trung Quốc (liên kết với Bộ Công An) tập trung vào cách tiếp cận  của các nước khác về vấn đề này. Cả hai tổ chức này tương đối ẩn dật. Trái lại, Viện Nghiên cứu Biển Đông hiếu khách tới mức cùng cực. Phần lớn khuôn viên của nó được dành để chuyên tãi thông điệp của Trung Quốc hết sức thoải mái. Nó có một phòng nghe 200 chỗ ngồi và phòng hội nghị 100 chỗ ngồi cộng với nhiều phòng hội thảo nhỏ, phòng học, phòng VIP, phòng lễ tân, một phòng ấn phẩm và một số phòng triển lãm. Tầng trên cùng có văn phòng trang bị tốt dành cho học giả (và tác giả) khách đến thăm . Một nhà phụ chứa nhiều phòng ăn lớn nhỏ, 13 phòng ngủ đầy đủ tiện nghi cho khách (bổ sung với TV màn hình phẳng, áo choàng tắm và đồ dùng vệ sinh L'Occitane trong phòng tắm), và ở tầng trên cùng, buồng Đại sứ với nhiều lối vào riêng biệt cho vợ và  tình nhân. Trái lại, 40 cán bộ nghiên cứu của viện làm việc trong ba văn phòng lớn và được xe buýt đưa đón tới cơ sở của viện.

Văn phòng Tiến sĩ Wu ở tầng bốn nhưng bốn là con số không may mắn trong văn hóa Trung Quốc (phát âm [sì/: tứ] gần giống như từ ‘chết’ [sǐ/: tử]) trong khi sáu là tốt lành (phát âm [liù/: lục] gần giống như từ ‘tiền của’ [lù/: lộc]). Vì vậy, không có tầng bốn và năm trong tòa nhà và Tiến sĩ Wu làm việc ở tầng sáu. Ông cộng sản mang thẻ đảng nhưng mê tín này được hưởng tình trạng nửa biệt lập. Ông được Bộ Ngoại giao lắng nghe, nhưng ông không đại diện cho họ. Trên thực tế, ông được phép kiểm nghiệm các ý tưởng mới và khám phá những cách khả dĩ để tiến tới trong các tranh chấp mà không để chính phủ của ông phải cam kết bất cứ điều gì. Ông ta có thể chỉ là một tiếng nói trong các cuộc thảo luận, nhưng nó cho chúng ta một ý tưởng nào đó về một loạt các lựa chọn mà lãnh đạo Bắc Kinh đang xem xét. Nụ cười tiến sĩ Wu hiếm khi tan biến nhưng thái độ của ông là kiên quyết hơn lạc quan ‘Không có cách nào để giải quyết vấn đề chủ quyền trong tương lai gần’, ông nói không rào đón - một cách thừa nhận rằng các nước khác không bị lung lay bởi các lập luận lịch sử và pháp lí của Trung Quốc.

Kể từ ngày 7 tháng 5 năm 2009, khi chính phủ Trung Quốc đính kèm bản đồ ‘đường chữ U’ vào văn kiện nộp cho Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc, họ đã phải chịu sức ép phải làm rõ đường đó thể hiện chính xác điều gì. Các bộ phận khác nhau của nhà nước Trung Quốc đã xem đường này theo những cách khác nhau. Tháng 4 năm 2011, Bộ Ngoại giao Trung Quốc gửi một công thư chính thức cho Liên Hiệp Quốc đề cập đến ‘chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở Biển Đông và các vùng biển lân cận’. Công thư đó không đề cập đến ‘đường chữ U’. Tuy nhiên, các hành động của Hải Giám và Ngư Chính cũ (đã được sáp nhập vào Cảnh Sát Biển Trung Quốc vào năm 2013) ở vùng biển ngoài khơi Philippines, Việt Nam, Malaysia và quần đảo Natuna của Indonesia trong năm 2011, 2012 và 2013, và quyết định của công ti Dầu Khí Ngoài Khơi Quốc gia Trung Quốc cho đấu thầu thăm dò các lô ngoài khơi bờ biển Việt Nam tháng 6 năm 2012 cho thấy rằng tất cả các tổ chức này hiểu đường này như một yêu sách lãnh thổ trên toàn bộ khu vực đó.

Những tuyên bố công khai của các bộ phận khác của bộ máy nhà nước Trung Quốc đã làm cho tình hình phức tạp hơn: ‘đường chữ U’ đã có một cuộc sống riêng. Ví dụ, mỗi bản đồ được xuất bản ở Trung Quốc phải được sự chấp thuận của Tổng Cục Đo Đạc, Bản Đồ và Thông Tin Địa Lí. Ngay cả một tổ chức phi chính phủ nhỏ muốn minh họa nơi nó đang làm việc ở Trung Quốc cũng không thể công bố bản đồ đó trừ khi nó có chứa ‘đường chữ U’.[14] Một bản đồ của đường này đã được in trong mỗi hộ chiếu Trung Quốc cấp từ tháng 4 năm 2012. Mặc dù ý nghĩa chính xác của đường này không được nêu ra rõ ràng, nhiều người Trung Quốc chỉ đơn giản cho rằng nó vạch ra một yêu sách lãnh thổ. Một sự thụt lùi khỏi vị trí đó có thể kích động những chỉ trích dữ dội trong nước. Tuy nhiên, viện có vẻ như đang dò xem các tổ chức và chính phủ nước ngoài sẽ có thể phản ứng ra sao trước những cách tiến bước khác nhau. Điểm khởi đầu hiện nay là nêu ra yêu sách của Trung Quốc bám chắc theo ngôn ngữ của UNCLOS, cũng giống như Henry Bensurto đang làm ở Philippines. ‘Theo quan điểm của tôi, “đường 9 vạch” sẽ là đường về quyền sở hữu tất cả các thể địa lí bên trong các đường này và các vùng biển lân cận’, Tiến Sĩ Wu nói. ‘Tại các hội nghị quốc tế tôi cũng giải thích rằng Trung Quốc không bao giờ tuyên bố toàn bộ phần Biển Đông nằm bên trong đường này là vùng nước lịch sử của mình.

Có lúc các nhà quan sát bên ngoài quan ngại rằng các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc có thể đi đến kết luận rằng nếu Trung Quốc không thể bảo vệ thành công đòi hỏi của họ theo các chuẩn mực của luật pháp quốc tế thì họ có thể chọn cách không tham gia UNCLOS hoàn toàn. Nhưng ý tưởng Trung Quốc ‘làm chuyện lừa đảo' cũng báo động các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc. Nó sẽ phá hủy nhiều thập kỉ ngoại giao thận trọng dựa trên lời rêu rao về ‘trỗi dậy hòa bình’. Viện này dường như là một phần của một nỗ lực phối hợp cả nước cố chấn chỉnh yêu sách Biển Đông theo luật pháp quốc tế. Chắc chắn bây giờ đó là ngôn ngữ mà Tiến sĩ Wu sử dụng khi phát biểu công khai. Đó là một nhiệm vụ khó khăn và bây giờ có một nguy cơ to lớn rằng, nếu vụ kiện của Philippines tại Tòa án Trọng tài Thường trực thành công và yêu sách của Trung Quốc dựa trên UNCLOS bị phán quyết thành nhỏ nhoi hơn hoặc không tồn tại thì chiến lược đó có thể hoàn toàn bị suy yếu.

Vì vậy, viện đã bắt đầu tìm tòi các lựa chọn thay thế tinh vi hơn nhưng cũng rắc rối về pháp lí hơn. Tháng 10 năm 2013 viện đã tổ chức một hội nghị quốc tế tìm hiểu xem liệu Trung Quốc có thể sử dụng khái niệm pháp lí về ‘quyền lịch sử’ để yêu sách nguồn tài nguyên bên trong ‘đường chữ U’ mà thậm chí không yêu sách về chủ quyền. Tiến sĩ Wu thừa nhận rằng điều đó là gây tranh cãi. ‘Điều đó gây tranh cãi. Khó mà đạt được một sự đồng thuận chung về vấn đề này. Một số học giả nói rằng quyền lịch sử chỉ là quyền về hoạt động đánh bắt cá ở những vùng đó. Nó cần phải được nghiên cứu thêm, khu vực này: quyền đánh bắt cá, quyền đi lại, thăm dò tài nguyên thiên nhiên. Trung Quốc phải có chủ quyền đối với các đảo và cũng phải hưởng các quyền lịch sử trên cơ sở tích lũy.’ UNCLOS không hề đề cập chút gì về ‘quyền lịch sử’. Khái niệm này đã cố tình bị loại ra khỏi văn bản này. Để phát triển trường hợp của mình, chính phủ Trung Quốc sẽ phải bước vào vùng rìa còn hoang sơ của luật pháp quốc tế.

Viện không đơn độc trong nỗ lực này. Tháng 1 năm 2013, Giám đốc điều hành Viện các Vấn Đề Biển Trung Quốc, Gao Zhiguo [Cao Chí Quốc] (cũng là một thẩm phán tại Tòa án Quốc tế về Luật Biển), và Jia Bing Bing [Giáp Binh Binh], giáo sư Luật Quốc Tế tại Đại Học Thanh Hoa, công bố một bài báo khoa học dài cho rằng ‘đường chữ U’ quả có cơ sở trong luật quốc tế.[15] Thay vì tập trung vào ‘quyền lịch sử’ như viện đang tìm hiểu, bài viết sử dụng một nhóm lập luận khác cho rằng Trung Quốc có ‘quyền sở hữu/danh nghĩa lịch sử’ (historic title) đối với các vùng biển này. Theo lời của các tác giả, ‘đường 9 vạch không mâu thuẫn với các nghĩa vụ Trung Quốc phải thực hiện theo UNCLOS; mà nó bổ sung những gì được quy định trong Công Ước’ - nói cách khác, ngay cả khi ‘đường chữ U’ bị phán quyết là không phù hợp với UNCLOS, nó vẫn có thể có một cơ sở ở các khía cạnh khác của luật quốc tế. Một chuyên gia pháp lí của Trung Quốc ở Bắc Kinh, muốn không được nêu tên, giải thích về cách nghĩ này. ‘Lời mở đầu của UNCLOS nêu rằng công ước không có ý quy định mọi thứ. Luật tập tục (customary law) và cách thực hành/thông lệ của các nước (state practice) vẫn phải được tham khảo.’  Đây có thể là một vấn đề đối với vụ kiện của Philippines. ‘Tiền đề của vụ kiện Philippines rằng luật biển quốc tế chỉ là UNCLOS. Nhưng dù định nghĩa của đảo thế nào, vẫn còn một câu hỏi về sở hữu/danh nghĩa – trước nhất’.Quan điểm của chuyên gia này là Tòa Trọng tài Thường trực sẽ cần phải quyết định xem có cần một tòa án khác quyết định về vấn đề chủ quyền trước khi họ có thể quyết định về tình trạng các thể địa lí hay không. Điều này sẽ làm chậm hoàn toàn chiến lược của Henry Bensurto.

Những lập luận này, ít nhất là cũng gây tranh cãi. Chúng cũng được dựa trên sự hiểu biết về loại lịch sử ràng buộc nhiều vào tình cảm dân tộc hơn là bằng chứng lịch sử. Ví dụ, bài viết của thẩm phán Gao có chứa khẳng định rằng ‘Biển Đông đã được ngư dân và người đi biển Trung Quốc biết đến từ thời xa xưa’, mà không giải thích gì thêm. Tuy nhiên, những nỗ lực đang bỏ ra này là một dấu hiệu cho thấy mức độ nghiêm chỉnh mà nhiều bộ phận của nhà nước Trung Quốc đang suy nghĩ về việc bảo vệ lợi ích nước này ở Biển Đông trong khi đồng thời cũng muốn duy trì trong khuôn khổ của luật pháp quốc tế hiện hành.

Nói chung, có bốn nguồn mạch chính về lợi ích của Trung Quốc: ý thức về quyền lịch sử đối với Biển Đông kết hợp với một mong muốn về uy tín quốc gia, nhu cầu về ‘chiều sâu chiến lược’ để bảo vệ các thành phố ven biển của Trung Quốc, mong muốn có đảm bảo tiếp cận chiến lược các vùng biển mở của Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, và mong muốn được tiếp cận với các nguồn tài nguyên của chính Biển Đông - đặc biệt là cá và hydrocarbon. Bốn chương trình hành động này đang được bảo trợ bởi các cơ sở quyền lực khác nhau ở Trung Quốc và trong khi Bộ Ngoại Giao, chẳng hạn, có thể sẵn sàng thừa nhận sức mạnh của vụ kiện chống lại họ thì quân đội, Cục Hải Dương, công ti Dầu khí Ngoài Khơi Quốc gia Trung Quốc ( CNOOC) và các tỉnh với ngành công nghiệp đánh bắt cá lớn có nhiều khả năng không đồng ý. Bộ Ngoại Giao không ngồi ở hàng ghế đầu trong hệ thống chính trị của Trung Quốc, nhưng thấp hơn nhiều trong hệ thống tầng bậc đó. Một chuyên gia đánh giá nó là chỉ là cơ quan nhà nước quan trọng thứ 40 (trong số 50).[16] Về mặt thực tế, Bộ Ngoại giao dường như ít có ảnh hưởng đến cấp ra quyết định cao nhất ở Bắc Kinh bằng các đối thủ khác trong guồng máy.

Các bộ và các cơ quan nhà nước này duy trì quyền lực của họ trong hệ thống chính trị của Trung Quốc thông qua vận động hành lang liên tục, dù để moi nguồn vốn nhà nước, tìm cơ hội làm cho lợi nhuận hoặc công ăn việc làm địa phương lớn hơn. Tất cả đều có kinh nghiệm lâu dài trong việc trình bày các lập luận của họ lọt vào các kể lể có khả năng giành được sự ưu ái của lãnh đạo trung ương. Không khó để làm truờng hợp của họ ăn khớp với đòi hỏi quốc gia cho việc Trung Quốc giành được quyền truy cập không bị thách thức đối với các nguồn tài nguyên biển. Khi CNOOC đưa giàn khoan siêu nước sâu của nó, HS981, tháng 5 năm 2012, Chủ tịch công ti Wang Yilin [Vương Nghi Lâm] tuyên bố nó là một phần của ‘lãnh thổ quốc gia di động của Trung Quốc và là một vũ khí chiến lược để thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp dầu khí ngoài khơi của đất nước’.[17] Ông không nói đến số tiền trợ cấp nhà nước đổ vào giá tiền gần $840 triệu của giàn khoan hoặc ảnh hưởng có thể có của nó lên lợi nhuận của công ti, dù những điều này có lẽ quan trọng hơn với ông. Chính sách của Trung Quốc ít có khả năng là kết quả của việc tổng kết có xem xét của các lập luận có lí lẽ hơn là kết quả không thể đoán trước của việc dồn đống các chiến dịch vận động hành lang. Khi kết hợp với nhau, sức mạnh của những nhóm lợi ích là rất lớn. Một điều mà tất cả họ có thể đều đồng ý, dù vì lí do yêu nước, an ninh, lợi nhuận hoặc việc làm, đó là Trung Quốc phải có quyền truy cập vào các nguồn tài nguyên của Biển Đông. Các khu vực ngoài khơi bờ biển của họ đã bị khai thác quá cùng cực về cá lẫn hydrocarbon đến mức các vận động hành lang trong nước đang nằng nì đòi tìm kiếm ở xa hơn. Ban đầu, các lãnh đạo Trung Quốc đủ thực tế để hiểu rằng điều này sẽ kích động sự bất bình và phản đối. Đề xuất của Trung Quốc với Đông Nam Á vẫn không thay đổi trong một phần tư thế kỉ. Theo lời của Tiến sĩ Wu, ‘cách thực dụng hợp lí là thực hiện việc cùng phát triển’ [cộng đồng khai phát].

Chính sách của Trung Quốc là nhất quán về điểm này kể từ khi Đặng Tiểu Bình đề xuất lần đầu tiên với các nhà lãnh đạo khác trong khu vực hồi thập niên 1980 và Li Peng [Lí Bằng] tuyên bố với thế giới tại Singapore vào ngày 13 tháng 8 năm 1990: ‘Trung Quốc sẵn sàng tham gia các nỗ lực phát triển quần đảo Nam Sa cùng với các nước Đông Nam Á trong khi gác lại câu hỏi về chủ quyền vào lúc này’ (xem chương 5).[18] Tuy nhiên, trong nhiều năm qua chính sách này vẫn chủ yếu là lời nói. Ví dụ năm 2003, Wu Banguo [Ngô Bang Quốc], lúc đó là chủ tịch Quốc Hội đề xuất điều này ở Philippines và năm 2005 ông cũng đưa nó ra ở Malaysia. Cùng năm đó Hồ Cẩm Đào gợi ý điều này ở Brunei. Tại Philippines, đề nghị đó dẫn đến Thoả Thuận Thăm Dò Địa Chấn Biển Chung (JMSU) và thoả thuận này kết thúc bằng vụ bê bối chính trị, giết chết bất kì cơ hội nào cho việc cùng phát triển. Không nước nào khác nhận lời đề nghị và ý tưởng đó mờ nhạt đi. Nhưng vào ngày 6 tháng 9 năm 2011, có lẽ như một phản ứng với chỉ trích của quốc tế về nhiều sự cố cáp cắt của năm đó, Phòng Thông tin của Quốc Vụ Viện Trung Quốc phát hành ‘Sách trắng về Phát triển hòa bình của Trung Quốc’, nhấn mạnh chỉ đạo của Đặng Tiểu Bình về cùng phát triển.[19] Tháng 12 năm 2012 Viện Nghiên cứu Biển Đông đã giúp cho chủ truơng này có động lực mới với một hội nghị quốc tế về đề tài này. Kể từ đó, Bắc Kinh đã đẩy nó mạnh bạo hơn bao giờ hết, với một sự pha trộn giữa ngoại giao công chúng và thổi phồng.

Tháng 10 năm 2013, các phương tiện truyền thông Trung Quốc lớn tiếng tuyên bố rằng Brunei và Việt Nam đã đồng ý làm việc với Trung Quốc về ‘phát triển chung’ ở Biển Đông và bài xã luận kêu gọi ‘các nước khác’ - có ý chỉ Philippines, Malaysia và Indonesia – cũng cùng ‘nắm lấy cây đũa thần’ này.[20] Nhưng các thỏa thuận được tung hô này là ít hơn rất nhiều hơn so với chúng đuợc trình bày cho bạn đọc của các trang mạng Trung Quốc. Thỏa thuận giữa Trung Quốc và Brunei thật ra là một liên doanh thương mại giữa CNOOC và công ti Dầu khí Quốc gia Brunei về cung cấp dịch vụ cho các giếng dầu. Nó chẳng hề dính dáng gì đến việc chia sẻ các trữ lượng dầu khí tại các khu vực tranh chấp của Biển Đông.[21] Còn thỏa thuận với Việt Nam thậm chí còn ít cụ thể hơn. Nó chỉ đơn thuần là thiết lập một nhóm làm việc để nghiên cứu về hợp tác trên biển, nhưng hãng tin Tân Hoa Xã mô tả nó như là một ‘sự đột phá’.[22] Bài báo đó dẫn lời Tiến Sĩ Wu: ‘thỏa thuận đó chắc chắn sẽ gửi một thông điệp rõ ràng tới các bên tranh chấp khác rằng gác cãi cọ về chủ quyền và ngồi vào bàn để trao đổi về cùng phát triển là một sự lựa chọn thực dụng’.

Việc cùng phát triển quả thật có vẻ hợp lí và có nhiều ví dụ về những nơi mà nó thực hiện được, cả ở Đông Nam Á và nhiều nơi khác. Nhưng điểm nhức nhối ở Biển Đông luôn luôn là việc quyết định nó sẽ diễn ra chỗ nào. Trong khi trò chuyện với tôi, Tiến sĩ Wu chỉ nhấn mạnh hai khu vực: ‘Khu vực Bãi Cỏ Rong (Reed Bank), mà Philippines yêu sách, và Bãi Tư Chính (Vanguard Bank) nơi Việt Nam tuyên bố thực thi quyền chủ quyền. Vì vậy, theo quan điểm Trung Quốc, có thể toàn bộ khu vực Trường Sa là có thể đưa vào cho việc cùng phát triển. Một số học giả nước ngoài thậm chí còn gợi ý khu vực Quần Đảo Hoàng Sa hoặc Bãi Cạn Scarborough sẽ là một trường hợp khác cho việc cùng phát triển.’ Bãi Cỏ Rong và Bãi Tư Chính đều đã được khảo sát gần đây và cả hai đều được cho là có chứa các mỏ dầu hoặc khí có thể khai thác được nhưng cả hai đều cách xa Trung Quốc, hơn nữa cả Philippines lẫn Việt Nam đều có vẻ không sẵn sàng nhượng đi quyền chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên ở đó. Tôi hỏi Tiến sĩ Wu liệu phát triển chung có thể sẽ dễ dàng hơn trong khu vực phía Bắc của quần đảo Trường Sa vốn có ít tranh chấp. Câu trả lời ngây ngô của ông là ‘Tôi không chắc liệu phần phía Bắc của khu vực Trường Sa có nhiều dầu không. Đó không phải là một vấn đề chính trị, đó là một vấn đề thương mại hay kĩ thuật’. Trong khi có thể có một ủng hộ nào đó trên nguyên tắc cho việc cùng phát triển, vấn đề là không nước nào sẵn sàng chấp nhận đề nghị của Trung Quốc. Phải cần hai người mới nhảy tango được và hiện giờ Trung Quốc vẫn chưa có bạn nhảy nào.

* * * * *

Ernie Bower có quan hệ thân mật với hầu hết những ai có thể xét tới việc nhận lời đề nghị của Trung Quốc. Bower chỉ đạo Diễn Đàn Sumitro về Nghiên cứu Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington DC. Các quan chức chính phủ thường xuyên tham khảo ý kiến ông về các khía cạnh trong chính sách của Mĩ, cũng như giao dịch qua công ti tư vấn tư BowerGroupAsia của ông. Việc làm của ông đã được Vua Malaysia và Tổng Thống Philippines vinh danh và được những người có địa vị với lợi ích trực tiếp ở Biển Đông tán tụng. Trong Hội đồng tư vấn của Diễn Đàn Sumitro có Richard Armitage, cựu Thứ trưởng Ngoại giao, bây giờ là giám đốc của công ti dầu ConocoPhillips; William Cohen, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ và bây giờ Giám Đốc công ti của tư vấn quốc phòng của chính ông; Hashim Djojohadikusomo, ông chủ cũ của công ti dầu Indonesia PT Pertamina; Đô Đốc Timothy Keating, cựu Chỉ huy trưởng Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương; Melody Meyer, Chủ Tịch của Chevron AsiaPacific; Edward Tortorici, Phó Chủ Tịch Tổng công ti First Pacific, vốn sở hữu cổ phần kiểm soát trong Forum Energy, công ti đang cố phát triển dự trữ khí trên khu vực Bãi Cỏ Rong; James Blackwell, Phó Chủ Tịch điều hành của ChevronSkip Boyce, Chủ Tịch khu vực Đông Nam Á thuộc Boeing; và George David, cựu Chủ Tịch của United Technologies Corporation, một nhà thầu hàng không vũ trụ.

Bower trò chuyện với quá nhiều nhân vật quan trọng đến nổi quan điểm của ông về việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông có lẽ phản ánh một sự đồng thuận mới nổi lên trong giới hoạch định chính sách Washington. ‘Nằm ở cốt lõi của sự hiểu biết của Mĩ về những gì họ cần thực hiện để có một Châu Á-Thái Bình Dương an toàn là thực tế rằng sẽ không có sự ổn định và an ninh trừ khi Trung Quốc cảm thấy an toàn về mặt năng lượng, nước và thực phẩm’, ông nói. ‘Chúng ta có thể chạy vòng quanh rất nhiều về ngữ nghĩa nhưng thực chất không có cách nào để có một Châu Á ổn định, an toàn, trừ khi Trung Quốc tìm ra một con đường với các nước láng giềng và với sự khuyến khích của Hoa Kì tìm ra một con đường hướng tới phát triển chung ở Biển Đông. Cuối cùng, đó là điều sẽ phải đến.’ Đáng chú ý, Mĩ và Trung Quốc thấy chính họ cũng đồng ý về một lộ trình thoát ra các vụ tranh chấp. Nhưng có một vấn đề lớn.

Song song với những nỗ lực của Tiến sĩ Wu ở  Hải Khẩu, các nhóm chuyên gia tư vấn cũng đang tìm tòi các cách có thể có để tiến lên. Chẳng hạn Nhóm Sáng kiến An ninh châu Á của Quỹ MacArthur của John D. và Catherine T. đã tài trợ cho một nghiên cứu ba năm của Sở Nghiên cứu Châu Á Quốc Gia,[23] và Trung tâm Luật Quốc tế, Đại học Quốc gia Singapore đã và đang tìm tòi các khuôn khổ pháp lí tiềm năng. Tất cả các nhà nghiên cứu này nói chung cũng đã đi đến kết luận tương tự. Phát triển chung sẽ chỉ có thể xảy ra một khi có sự đồng thuận về các yêu sách lãnh thổ và biển. Chúng ta lại quay trở lại từ đầu. Sự trớ trêu đối với Trung Quốc là ‘việc gác tranh chấp cùng phát triển’ sẽ chỉ có thể xảy ra một khi họ chính thức hoá yêu sách của mình - việc mà họ không muốn làm vì các tranh chấp nội bộ giữa các bộ phận khác nhau trong guồng máy nhà nước mà điều này sẽ làm nẩy sinh.

Nhà ngoại giao Indonesia Hasjim Djalal đã nuôi dưỡng những lập luận này trong hơn một phần tư thế kỉ. Lặng lẽ và kiên nhẫn, ông đã cố giúp các bên khác nhau tìm thấy điểm chung. Ông là một trong những nhà đàm phán thảo ra UNCLOS trong thập niên 1970 và 1980 và cũng từng là đại sứ tại Liên Hiệp Quốc. Khi đuợc tin về trận chiến ở Đá Gạc Ma (Johnson Reef) vào năm 1988 (xem Chương 3), ông hiểu chính xác các tác động có thể có cho Đông Nam Á là gì. ‘Tôi cảm thấy không thật thoải mái khi Biển Đông tiếp tục nhận đuợc nhiều quan tâm chiến lược hơn trong mắt của Trung Quốc, Hoa Kì, Nhật Bản, các nước ASEAN và thậm chí cả Ấn Độ và Nga’.[24] Đối với Djalal, điều cốt lõi là khu vực này nên cố gắng giải quyết các tranh chấp mà không có sự can dự của các cường quốc bên ngoài. Ông lo sợ rằng những căng thẳng và kình địch trong khu vực khi các nước tranh nhau tóm lấy tài nguyên biển, sẽ cản trở khả năng tăng trưởng kinh tế.

Ông đi đến kết luận rằng các cuộc đàm phán chính thức sẽ chẳng đi tới đâu, ngay cả trong trung hạn, và rằng các nước không muốn người ngoài cố tìm cách sắp xếp cho một giải pháp. Thay vào đó, ông đã nhìn thấy một cơ hội ở UNCLOS, đặc biệt là các quy định về việc các nước xung quanh các biển kín và nửa kín bị buộc phải hợp tác. Djalal từng là thành viên lãnh đạo Nhóm Đặc trách Nghề cá của Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương vốn đã thành công trong việc làm chính phủ các nước trong khu vực Đông Nam Á, các đảo Thái Bình Dương, và Mĩ Latin Thái Bình Dương hợp tác với nhau ở những chỗ mà các sáng kiến chính thức trước đây đã thất bại. Sau đó, khi tham dự một hội thảo về phát triển chung các quặng dầu ở Đông Nam Á vào đầu năm 1989, ông đã gặp Ian Townsend-Gault, giáo sư luật Đại học British Columbia ở Canada. Hai ông thấy rằng họ đã đi đến cùng một kết luận: Biển Đông cũng cần một chỗ chính thức để nuôi dưỡng việc hợp tác thiết thực. Townsend-Gault trút hết ý tưởng này cho Bộ Ngoại giao Canada, và đã được đồng ý tài trợ cho sáng kiến này trong 5 năm.[25]

Vào khoảng cuối năm 1989 Djalal thuyết phục Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia, Ali Alatas, cử ông và Townsend-Gault đi một vòng tới các toà đại sứ và các bộ quanh ASEAN. Họ kết luận rằng tất cả mọi người đều muốn phải làm một cái gì đó, rằng cách tiếp cận không chính thức sẽ là tốt nhất và rằng các quốc gia ASEAN cần phối hợp lập trường của họ trước khi dấn vào làm việc với những nước khác. Djalal và Townsend-Gault đặt ra cho chính mình hai mục tiêu: quản lí các xung đột tiềm năng bằng cách tìm kiếm một lĩnh vực mà tất cả mọi người có thể hợp tác và phát triển các biện pháp xây dựng lòng tin giữa các bên tranh chấp đối thủ. Indonesia có hai con bài chính để chơi: họ không yêu sách bất kì thể địa lí nào trong khu vực tranh chấp và họ có một số khách sạn sang trọng trên các bãi biển yên tĩnh mà ở đó các đại biểu có thể đối thoại trong hòa bình. ‘Hội thảo về Quản lí xung đột tiềm năng ở Biển Đông’ đầu tiên đã diễn ra ngay sau đó, vào tháng 1 năm 1990, tại Bali, cho các đại biểu từ chỉ sáu nước ASEAN lúc đó. Các nước khác trong năm sau cũng đã được mời. Tính phi chính thức cho phép nhiều vấn đề khó khăn len lách qua dễ dàng: cả Trung Quốc lẫn Đài Loan đều có thể tham gia, các vấn đề lãnh thổ có thể cho vào chương trình thảo luận và các phương án chính sách được xem xét. Theo Djalal, Trung Quốc ban đầu miễn cưỡng tham gia vì họ không muốn vấn đề ‘bị khu vực hoá’ nhưng cuối cùng cũng đã như vậy.

Các cuộc thảo luận khởi đầu tốt. Một số ý tưởng thậm chí đã len trực tiếp vào lĩnh vực chính thức với việc kí kết ‘Tuyên bố Manila của ASEAN về Biển Đông’ năm 1992 (mà bản thân nó là một phản ứng với Luật mới của Trung Quốc về Lãnh Hải công bố vài tháng trước đó). Năm đó hội thảo không chính thức đồng ý thành lập các nhóm công tác kĩ thuật để xem xét những vấn đề cụ thể. Cuối cùng gồm có: tài nguyên, nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường, an toàn hàng hải và các vấn đề pháp lí. Tiến bộ chậm chạp nhưng đến năm 1995 họ đã phê duyệt hai dự án nghiên cứu khoa học: một về thay đổi mực nước biển và một về chia sẻ dữ liệu, Canada chấp thuận tài trợ thêm 5 năm nữa. Nhưng sau đó, theo Djalal, bắt đầu có vấn đề: ‘Trung Quốc muốn rằng chỉ các tổ chức quốc gia phụ trách việc thực hiện’ chứ không phải các tổ chức của khu vực. Ví dụ, năm 1998 Bắc Kinh phản đối một đề nghị của Indonesia về nghiên cứu hydrocarbon, một kế hoạch của Thái Lan về nghiên cứu nguồn cá và thậm chí cả một kế hoạch tạo ra một cơ sở dữ liệu về khoa học trái đất cho khu vực.[26]

Năm 1993 Djalal đã đề nghị một khu vực cụ thể, mà ở đó một nỗ lực bước đầu cho việc cùng phát triển đích thực có thể diễn ra. Vị trí đã được giữ kín để tránh những phản ứng tiêu cực của công chúng. Hầu hết các nước ủng hộ ý tưởng đó, vài nước có những bảo lưu nhưng có một nước ‘không muốn nói chút gì về “khu” đề xuất cả’. Ý tưởng phai nhạt cho đến khi Djalal đưa ra một đề nghị sửa đổi vào năm 1998. Hội thảo đã tạo ra ‘Nhóm nghiên cứu về các Khu Hợp tác’ để cố thúc đẩy ý tưởng tiến tới. Nhóm đã xác định bốn vấn đề cần phải được khắc phục: phát triển sẽ được đặt ở đâu, tài nguyên nào sẽ được phát triển, loại tổ chức nào sẽ quản lí sự phát triển và những nước nào sẽ tham gia. Thảo luận tiếp tục trong ba năm nữa nhưng không thể đạt được điều gì cụ thể. Mặc dù các cuộc thảo luận tự chúng là các biện pháp xây dựng lòng tin, cuối cùng dự án thực tế duy nhất đi ra từ Hội thảo Biển Đông là một đoàn khảo sát hỗn hợp về sự đa dạng sinh học tháng 3 năm 2002, và thậm chí đã diễn ra xung quanh đảo Anambas không có tranh chấp của Indonesia. Đến lúc đó thì Canada quyết định ngừng tài trợ và các hội thảo trượt vào không hoạt động.

Theo cái nhìn của Djalal, đây là một thắng lợi đối với Bắc Kinh, vì Trung Quốc ‘dường như cảm thấy rằng quá trình này đã đi quá xa, quá nhanh và đã thảo luận quá nhiều chủ đề. Do đó có vẻ họ muốn tiến trình hội thảo chậm lại.’ Nhìn lại các cuộc thảo luận về phát triển chung hơn mười năm, Djalal nói: ‘Có vẻ như những gì Trung Quốc muốn nói về việc cùng phát triển là Trung Quốc muốn cùng và song phương phát triển - với các bên tranh chấp có liên quan – các nguồn tài nguyên của Biển Đông trong khu vực do nước khác và Trung Quốc cùng tuyên bố chủ quyền’.[27] Nói cách khác, Trung Quốc không quan tâm đến việc cùng phát triển, ngoại trừ trong các EEZ do các nước khác tuyên bố chủ quyền.

Đây vẫn là tranh chấp cơ bản ngăn cản việc cùng phát triển ở Biển Đông. Khi Tiến sĩ Wu trò chuyện về việc cùng phát triển, ông nói không úp mở rằng điều đó chỉ áp dụng cho các khu vực nằm trong EEZ của các nước khác, chứ không phải của Trung Quốc. Ernie Bower thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế tại Washington nói rằng không một nước nào lại có thể tham gia một sáng kiến như vậy. Điểm mấu chốt là tất cả mọi nước trừ Trung Quốc sẽ từ chối việc cùng phát triển theo những điều kiện theo đó Trung Quốc là đấu thủ lớn nhất trong khu vực và sẽ quyết định điều kiện. Câu hỏi lớn là liệu và khi nào thì Trung Quốc sẽ có đủ tự tin để thương lượng các điều kiện với tư cách là một đối tác chủ chốt nhưng không cố khống chế các điều kiện’.

Tháng 11 năm 2011, tại Hội nghị cấp cao ASEAN-Trung Quốc tại Bali, Thủ tướng Ôn Gia Bảo thông báo việc mở ra ‘Quỹ hợp tác biển Trung Quốc - ASEAN’ 3 tỉ nhân dân tệ ($470 triệu). Kể từ đó các quan chức cấp cao đã nhiều lần quảng bá cho quỹ này. Tháng 9 năm 2013, người kế nhiệm Ôn Gia Bảo, Lí Khắc Cường, nói ở lễ khai trương hội chợ triển lãm ASEAN-Trung Quốc. ‘Chúng tôi đang làm các nghiên cứu về việc thực hiên một loạt các dự án hợp tác, ưu tiên cho xây dựng các cơ sở nghề cá, bảo vệ môi trường đối với hệ sinh thái biển, sản xuất và buôn bán thủy sản, an toàn hàng hải và tìm kiếm cứu nạn, và tạo thuận lợi cho vận tải biển.’ Hầu hết đó cũng là những vấn đề mà Bắc Kinh đã từ chối hợp tác trong các hội thảo của Hasjim Djalal. ‘Chúng tôi đang mong đợi sự tham gia tích cực của các nước ASEAN’, ông tiếp tục.[28] Nhưng các nước ASEAN không tham gia - họ cho rằng sẽ có các ràng buộc chính trị kèm theo có thể khiến cho họ phải nhân nhượng các yêu sách lãnh thổ của mình. Vào thời điểm viết điều này, không một đồng nhân dân tệ đơn lẽ nào đã đi đến một dự án có dính dáng tới ASEAN. Chỉ có một dự án đã được chào mời - và dự án đó sẽ làm lợi cho công ti quốc doanh Trung Quốc, Tập Đoàn Cảng Quốc Tế Quảng Tây - Vịnh Bắc Bộ. Tập đoàn này dự kiến mua cổ phần tại cảng Kuantan ở Malaysia trong năm 2014 và sau đó nâng cấp cơ sở vật chất của mình. Có vẻ như có thêm một sự trùng hợp khít khao giữa lời hô hào quốc gia và lợi nhuận của doanh nghiệp Trung Quốc.[29]

* * * * *

Có một căn hộ ở London, nhìn ra Sông Thames, một vài dặm về phía thượng nguồn từ nơi sinh  của Thuyển Trưởng Richard Spratlys và cách một vài dặm về phía hạ lưu, nơi ông mất, mà ở đó có một cách khác để tiến tới đang được nuôi dưỡng. Đó là một căn hộ rất lớn, ở trung tâm khu chính trị của Whitehall, được tô điểm với tác phẩm nghệ thuật, đồ cổ và vật quý từ khắp Đông Nam Á. Nó thường xuyên tiếp đón các thành viên của nhóm ưu tú xuyên Đại Tây Dương đi lại giữa các nhà ở khu old và New England và đó cũng là cơ sở của một tổ chức tự coi mình là một giải pháp tiềm năng cho các tranh chấp ở Biển Đông. ‘Kingdom of the Colonia of Saint John’ (Vương Quốc Colonia của Thánh John) nghe có vẻ giống như một chuyện giả tưởng loại Ruritania (vương quốc giả tưởng ở Trung/Đông Âu - ND) nhưng những người ủng hộ nó cho rằng đó là pháp nhân thừa kế hợp pháp của đế chế của đô đốc Tomas Cloma, người Philippines, và yêu sách của Cloma ở Biển Đông. Người quản trị yêu sách này dùng biệt danh là Thomas de Lys: nhân viên ngân hàng, người từng cộng tác với gia đình Marcos và từng là cố vấn tài chính cho Bà Tưởng Giới Thạch [Tống Mĩ Linh], ‘Bà Rồng’ (Dragon Lady) vợ của nhà lãnh đạo Quốc Dân Đảng.

De Lys cho tôi xem một tài liệu, Nghị định của Hội đồng Tối cao Nhà nước Freedomland, có vẻ do Tomas Cloma kí ngày 24 tháng 8 năm 1974, trong đó tên Freedomland được chuyển thành ‘Colonia’ và Cloma đã từ chức quốc trưởng thay bằng nhà phát triển bất động sản người Anh tên là John Barnes (sau này đổi tên thành John de Mariveles). Việc kí kết có sự chứng kiến của anh trai Tomas, Filemon Cloma, và một bạn làm ăn của Barnes, cựu chỉ huy tàu ngầm (U-boat) tên là Eric Sroka. Sau đó văn bản này được công chứng bởi luật sư Rufino A. Sanic ở Manila. Theo de Lys, những tay trong đã cảnh báo rằng Tổng thống Marcos Cloma sắp ép buộc ông phải giao nộp yêu sách này cho chính phủ Philippines nên ông đã cố gắng để qua mặt họ. Cuối cùng khi Cloma kí văn bản của Chính phủ, ngày 4 tháng 12 năm 1974, sau gần hai tháng ở trong tù, ông đã sử dụng những lời này ‘bất cứ quyền lợi và/hay lợi ích nào mà họ có thể đã thu được qua các đảo đã nói có tên là Freedomland’, hàm ý rằng thật ra chẳng còn có bất kì lợi ích nào, dù Marcos không biết điều đó.

Lập luận De Lys thực chất như thế này: theo Hiệp ước San Francisco 1951, quốc gia Nhật Bản từ bỏ chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Do đó, theo thuật ngữ pháp lí chúng đã trở thành không người chiếm đóng - terra nullius (đất vô chủ) - cho phép Cloma yêu sách các đảo này cho mình một cách hợp pháp. Bạn đọc nào đã đọc suốt từ đầu tới đây sẽ biết rằng đã có một tuyên bố từ trước của Pháp đối với sáu đảo kể từ năm 1933, được làm mới lại vào tháng 10 năm 1946, và một tuyên bố của Trung Quốc đối với Đảo Ba Bình (Itu Aba), từ tháng 12 năm 1946. Nhưng theo cái nhìn của de Lys, Cloma đã tránh được mấy vấn đề này. ‘Tôn trọng yêu sách này của Pháp, Cloma cắt đi góc Tây Nam của lãnh thổ có chứa đảo Trường Sa, nó có tác dụng làm cho yêu sách của Cloma có dạng hình thang [dúng ra là hình lục giác - ND] như hiện nay. Các điều cụ thể liên quan đến yêu sách của Trung Hoa Dân Quốc [ROC] có thể được coi là ‘bị dập tắt’ vì Trung Hoa Dân Quốc được cho là không có tư cách một ‘quốc gia’ theo luật quốc tế, còn các điều cụ thể liên quan đến yêu sách của Trung Quốc [Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa] chưa bao giờ được Trung Quốc đề ra hoặc làm rõ cho đến giờ, ngoại trừ cái gọi là ‘đường chín vạch’. Những yên sách Việt Nam dựa trên quan điểm cho rằng họ là những người kế thừa yêu sách của Pháp nhưng Pháp lại tranh chấp điều này.’


Tuyên bố Freedomland của Tomás Cloma ngày 6/7/1956
(giới hạn của Freedomland là hình lục giác ABCDEF có toạ độ như xác định trong tuyên bố)*


Freedomland doTomás Cloma (lục giác màu xanh nhạt) và phần do Tổng Thống Philippines tuyên bố theo sắc lệnh 1596 ngày 11/6/1978 (lục giác nghệ) có chênh lệch đôi chút
(Theo bản đồ này chỉ có tuyên bố của TT Philippines là không chứa đảo Trường Sa, còn tuyên bố của Cloma chứa toàn bô các đảo do Pháp tuyến bố năm 1933)"

Trong những năm qua nhiều doanh nhân đã cố gắng để lập ra các quốc gia riêng của họ: chẳng hạn gia đình Brooke tìm cách làm điều đó ở Sarawak. Tuy nhiên, hầu hết đều đáng ngờ về tính ngay thẳng. Nhà chức trách Mĩ đã phải đối phó với một số kẻ lừa đảo xưng là đại diện cho các quốc gia đóng trên các rạn san hô và muốn truy cập vào hệ thống ngân hàng quốc tế. Đã có nhiều vụ ở Biển Đông. Năm 1971, một người Mĩ tên Morton Frederick Meads, tự xưng là vua của Vương quốc Humanity-Cộng Hoà Morac-Songhrati-Meads đóng trên ‘Đảo Meads’ và tìm cách đánh lừa chính phủ Malaysia một thời gian. Thật không may cho Cộng Hòa-Vương Quốc này, có tin là những người ủng hộ nó đã bị nước cuốn chết trong một cơn bão vào tháng 6 năm 1972. Một đối thủ là ‘Principality of Freedomland’ có vẻ do một tay lừa đảo người Pháp công bố vào năm 1974 - không có liên hệ được biết với Tomas Cloma - và Cộng Hòa Thaumaturgy, với thủ đô tuyên bố là nằm trên Đá Louisa, tìm cách bán trái phiếu chính phủ cho các nhà đầu tư cả tin trong năm 2004. Thật ra có cả một cộng đồng nhỏ các  nhóm và các cá nhân trên toàn thế giới tự xưng đại diện cho các quốc gia dân tộc đóng trên các rạn san hô, hay cho các phẩm trật cao quý và các gia đình hoàng tộc không còn tồn tại.

Tuy nhiên, Vương Quốc Colonia of St John, có vẻ khác biệt. Nó có một địa chỉ thật, với những người thật phía sau nó và các tài liệu thật làm chỗ dựa cho tuyên bố của mình. Quan trọng hơn nó có thể tiếp cận thật với những người có ảnh hưởng và có tiền bạc thật đằng sau nó. Thomas de Lys là một phần của Triều đại ở bờ biển phía Đông của Mĩ, nó làm ra tiền qua việc xây dựng các nhà máy điện ở Châu Á và về sau đã cung cấp cho Hoa Kì một bộ trưởng tài chính và cho Đại học Yale một số tòa nhà mới tốt. Các bạn thân của De Lys gồm cả nhiều người rành rẽ hành lang quyền lực - từ các nhà tư bản gai góc cho đến các luật sư tài hoa.

Virginia Greiman chuyên vạch ra các giải pháp mới cho các vấn đề cũ. Bà là một luật sư về Big Dig - dự án đường hầm khổng lồ bên dưới thành phố Boston - và bây giờ dạy ở trường Luật Harvard. Việc bà đứng về Colonia bắt đầu với cùng các lập luận đúng y như trong bài viết của Gao Zhiguo và Jia Bing Bing rằng UNCLOS chẳng phải là tất cả và một quốc gia có thể khẳng định quyền sở hữu/danh nghĩa (title) lịch sử về lãnh thổ, mà Colonia là pháp nhân kế thừa đúng lẽ yêu sách của Freedomland từ năm 1956. Qua bữa ăn trưa ở trung tâm London, bà vạch ra mô hình phát triển đề xuất của mình, một định chế pha tạp dựa trên kinh nghiệm của bà với siêu dự án. Cách tiếp cận của bà sẽ cố gắng trả lời bốn câu hỏi được Djalal và Townsend-Gault nhận diện nhưng với một khu vực tư nhân hơn là với một mô hình liên chính phủ. Một Nhóm nghiên cứu hỗn hợp từ tất cả các bên tranh chấp sẽ phát triển một khuôn khổ cho việc đối thoại và đàm phán một thỏa thuận. Thỏa thuận này sẽ xác định ‘Khu vực nhượng quyền của Quần Đảo Trường Sa’ (Spratly Island Concession Area hay SICA) và cách phân bổ các tài sản bên trong nó. Nó sẽ để mở cho tất cả các bên tranh chấp, với các tranh chấp được chuyển đến tòa trọng tài riêng của chính khu vực. Khu vực này sẽ có cơ quan thẩm quyền riêng của mình, làm việc phân bổ các nhượng quyền đối với các tài nguyên khai thác.[30]

‘Nó có thể là một cầu nối giữa Trung Quốc và Philippines’, bà lập luận.  Điều quan trọng là phải giữ nó trong khu vực tư nhân và ngăn chặn các nước đi đến tòa án quốc tế. Bà tự tin rằng cả Trung Quốc lẫn Philippines đều sẽ được lợi từ việc sắp xếp đó. Nhưng còn Colonia thì sao? Theo mô hình SICA, Colonia sẽ nhận được một phần trong thu nhập và việc phải làm cái gì với nó là tuỳ các ‘nhà cai trị’ của Colonia quyết định. Bà nói rằng một số trong đó sẽ đi đến các mục đích tốt lành. Colonia muốn chia sẻ tài nguyên vì lợi ích của thế giới nên các liên kết về xây dựng của nó với các giáo hội và những người khác là để tạo thành một quỹ phúc lợi, ví dụ như giảm nghèo. Thách thức rõ ràng nhất cho kế hoạch hoành tráng này là mối nghi ngờ đáng kể về việc liệu có bên tranh chấp nào sẽ đối xử với Colonia một cách nghiêm túc không. Tiếp theo sẽ là liệu các bên tranh chấp sẽ có khả năng tìm được thỏa thuận trong Nhóm Nghiên Cứu Hỗn Hợp Greiman nhiều  hơn chút nào so với trong các cấu trúc hiện tại mở ra cho họ thông qua các hội thảo chính thức và trọng tài quốc tế không. Nghe có vẻ điên rồ, nhưng nó có ít thực tế hơn chút nào so với việc mong đợi Trung Quốc từ bỏ yêu sách ‘không thể tranh cãi’ của họ đối với Biển Đông không?

* * * * *

Độc giả mệt mỏi vì cuốn sách này, vào thời điểm này, có thể ao ước có một liều lượng biến đổi khí hậu tương đối lớn để nâng mực nước biển cao lên và nhấn chìm toàn bộ các thể địa lí của Biển Đông. Ngay cả những dự báo dè dặt về một mức nâng thêm 39-58 cm vào năm 2100 có thể đưa một số  thể địa lí hiện nay chìm dưới mặt nước. Đáng buồn là điều đó ít có khả năng làm giảm bớt vấn đề hơn là mở ra một đợt bất ổn khác. Việc mực nước biển nâng lên trong tương lai không phải là một mối quan tâm lớn khi soạn thảo UNCLOS và do đó, Công ước này không cung cấp lời hướng dẫn rõ ràng chúng sẽ được xử lí.như thế nào. Những lập luận giả định đã bắt đầu, với các học giả tranh luận nhau liệu cách giải thích đúng đắn luật quốc tế sẽ hoặc là duy trì trạng thái của các vùng đất này như chúng có vào năm 1982 hoặc là các ranh giới đó có thể di chuyển. Ngay cả khi chúng chìm sâu bên dưới sóng biển, các nước có thể vẫn sẽ tiếp tục đưa ra yêu sách đối với chúng. Nhật Bản đã chi những khoản tiền rất lớn để cố ngăn không để cho đá trên Okinotorishima, một đảo san hô xa trong Thái Bình Dương, bị xói mòn nhằm giữ yêu sách của họ rằng nó thực sự là một đảo được hưởng EEZ đầy đủ.

Vì vậy với ‘giải pháp’ đó không có khả năng thực hiện thì giải pháp nào khác là có thể? Tin tốt và tin xấu đã được phô bày trong tháng 5 năm 2009. Khi Malaysia và Việt Nam nộp hồ sơ chung cho Ủy ban về ranh giới thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc, họ chỉ tính yêu sách của mình từ đất liền chứ không từ bất kì một đảo nào trong các đảo tranh chấp.[31] Nhưng đó là nguyên nhân để Trung Quốc đưa ra bản đồ ‘đường chữ U’ một vài ngày sau đó, dường như làm thay đổi các điều kiện của các lập luận. Tất cả các quốc gia, ngoại trừ Trung Quốc, đều đã từng bước đưa yêu sách của mình phù hợp với UNCLOS. Các nước Đông Nam Á có thể không thừa nhận giá trị các yêu sách của nhau, nhưng họ đang bắt đầu thống nhất một cơ sở để giải quyết bất đồng của họ. Từng chút, từng chút một, vài tranh chấp ở Biển Đông đang được gỡ rối.

Việt Nam, Malaysia và Indonesia đã giải quyết các yêu sách đáy biển của họ trong khu vực mà các yêu sách này trùng nhau và ba quốc gia đang hợp tác hướng tới việc phân chia ranh giới của chúng. Trong khi đó họ đang theo đuổi việc cùng phát triển  ở các vực chồng lấn. Ranh giới giữa Malaysia và Brunei ban đầu đã được các nhà quản trị thuộc địa Anh giải quyết vào năm 1958 và sau đó mở rộng bởi một thỏa thuận song phương vào ngày 16 tháng 3 năm 2009. Hiện vẫn còn là một tranh chấp tiềm ẩn trên thềm lục địa mở rộng của Brunei, có thể chạy vào khu vực phát triển chung của Malaysia-Việt Nam nhưng điều này có vẻ như không kích động đối đầu. Tại thời điểm viết sách Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei vẫn chưa làm rõ yêu sách  đầy đủ thềm lục địa của họ.

Vấn đề lớn nhất trong nội bộ ASEAN là việc Philippines tiếp tục yêu sách đối với tỉnh Sabah của Malaysia - bắt nguồn từ thỏa thuận ban đầu  của Công Ti British North Borneo về nhượng lại hoặc cho thuê (việc dịch chính xác là rất quan trọng đối với tranh chấp này) khu vực này từ Quốc vương (Sultan) Sulu ở 1878. Như cuộc ‘xâm lược’ Sabah hồi tháng 2 năm 2013 của những người ủng hộ Sultan lúc đó cho thấy, yêu sách này vẫn còn là một vấn đề rất nhạy cảm. Mặc dù Sultan đã mất vào tháng 10 năm 2013, ước nguyện cuối cùng của ông là yêu sách nên được giữ vững.[32] Kết quả là Philippines không thể đồng ý ngay cả nơi khởi đầu cho việc phân định ranh giới với Malaysia, vì trước hết một bên sẽ phải thừa nhận tính hợp pháp của yêu sách các bên khác đối vớ Sabah. Khi Henry Bensurto của Philippines trình bày ý tưởng về Khu vực Hòa bình, Tự do, Hữu nghị và Hợp tác với Viện Hàngvụ của chính phủ Malaysiá tháng 12 năm 2011 ông đã sử dụng một tấm phim chiếu cho thấy ranh giới Philippines bắt nguồn từ biên giới giữa Malaysia và Brunei. Có lẽ đó không phải là cách ngoại giao nhất để trình bày kế hoạch. Không ngạc nhiên là sau đó người Malaysia đã từ chối ủng hộ sáng kiến.

Luật pháp khó có khả năng cung cấp câu trả lời cuối cùng cho các tranh chấp. Ngay cả khi Tòa Trọng Tài Thường Trực phán quyết nghiêng về Philippines thì cũng không có cảnh sát toàn cầu đứng ra thi hành phán quyết. Tuy nhiên, nếu như Trung Quốc cố tìm cách hạn chế việc truy cập của quân đội Mĩ đi qua Biển Đông thì chúng ta có thể chắc chắn rằng luật pháp quốc tế sẽ được viện dẫn để biện minh cho phản ứng của Washington. Trong khi đó, mối đe dọa vũ lực đang thực hiện theo cách khác. Chính phủ Philippines cho rằng nếu họ có thể khai thác hydrocarbon ở Bãi Cỏ Rong thì mức sống cho hàng triệu người dân của họ sẽ được cải thiện. Chuyển lập luận ngược lại, có thể cho rằng sự bất lực của chính phủ trong việc khai thác các nguồn tài nguyên này đang giữ mức độ suy dinh dưỡng và tử vong trẻ sơ sinh ở Philippines cao một cách không cần thiết: người dân đang chết vì các tranh chấp ở Biển Đông. Nếu Forum Energy, hoặc công ti khác, cố khảo sát hoặc khoan trên khu vực Bãi Cỏ Rong mà không có sự đồng ý của Bắc Kinh thì sẽ bị các tàu Trung Quốc chặn lại. Về lâu dài Manila có thể xây dựng hải quân mạnh lên đủ sức để có thể bảo vệ một giàn khoan, nhưng điều đó dường như còn rất xa vời. Trong khi đó, Philippines không có khả năng quân sự để xác lập việc phòng vệ  đáng tin cậy, do đó, họ sẽ hoặc phải trì hoãn việc khai thác hoặc phải khuất phục trước đòi hỏi của Trung Quốc. Manila sẽ trở nên tuyệt vọng đến mức thực hiện một thoả thuận? Trung Quốc sẽ đi đến một thỏa thuận nào đó trước hoặc sau phán quyết của Tòa Thường trực?

Không có lựa chọn thay thế dễ dàng cho xung đột đang tiếp diễn ở Biển Đông. Không bên nào muốn kích động một cuộc xung đột mà cũng chẳng bên nào sẵn sàng giảm bớt căng thẳng bằng cách điều chỉnh các yêu sách lãnh thổ của mình. Với mỗi rạn đá bây giờ hoặc bị chiếm hoặc dưới sự kiểm soát của nước này hoặc nước khác, sự căng thẳng đã chuyển sang các vùng biển nằm ở giữa và các nguồn tài nguyên có thể có hoặc không nằm bên dưới. Không may là có rất nhiều cơ hội làm cho sự xung đột xuất hiện và leo thang. Sự kết hợp của các tranh chấp lãnh thổ với các cuộc đấu tranh rộng lớn hơn giữa Mĩ và Trung Quốc về việc tiếp cận và an ninh chỉ làm cho tình hình thêm nguy hiểm  Với việc các chính phủ đang từ chối hợp tác với nhau trong các vấn đề quan trọng như nguồn cung cấp lương thực, thật khó thấy ra bất kì khả năng tiến bộ hướng tới việc hợp tác khu vực.Việc cùng phát triển nghe có vẻ như là một ý tưởng tốt, nhưng sẽ không thực tế cho đến khi Trung Quốc làm rõ vị thế của họ. Điều đó mang chúng ta ngược trở lại yêu sách lãnh thổ lịch sử của họ.

Các quan chức Trung Quốc trong tư riêng nhận ra sự vô lí về pháp lí của việc duy trì một yêu sách đối với những nơi như Bãi James, nằm sâu dưới nước và trong EEZ của nước khác. Các nhà ngoại giao Trung Quốc cũng được cho là đã đưa ra bảo đảm cho Indonesia rằng Bắc Kinh không yêu sách đối với các vùng biển xung quanh Natunas, mặc dù chúng nằm một phần trong ‘đường chữ U’. Nhưng cũng các quan chức này nói rằng họ không thể chính thức điều chỉnh ‘đường chữ U’ vì lí do chính trị - chỉ trích trong nước sẽ là quá lớn nên họ phải tiếp tục giữ lại yêu sách của họ. Một vài người trong số này là kết quả có tính toán của việc tuyên truyền chính trị: cố ý củng cố vị trí của chính phủ ở nước ngoài bằng cách truyền bá thông điệp rằng họ đang bị sức ép trong nước. Nhưng rõ ràng là một số rủi ro là có thật. Một bước ‘thụt lùi’ khỏi vị trí hiện tại của Trung Quốc sẽ kích động một loạt tiếng gào thét chỉ trích trong dân chúng.Vậy thì có thể thuyết phục dân Trung Quốc như thế nào để họ có một cái nhìn khác về lịch sử của vùng Biển Đông?

Có lẽ một câu trả lời nằm ở Đài Loan. Cơ hội cho một cuộc tranh luận tự do hơn về lịch sử Trung Quốc ở Đài Loan là lớn hơn rất nhiều so với ở lục địa. Hiện đã có một số học giả’ bất đồng chính kiến’ xem xét lại các khía cạnh của lịch sử thế kỉ XX. Đài Loan cũng là nơi mà các hồ sơ của Trung Hoa Dân Quốc, chính phủ vốn vẽ ra ‘đường chữ U’ đầu tiên, được lưu trữ. Một cuộc kiểm tra mở và toàn diện về các quá trình tuỳ tiện mà qua đó đường này đã được vẽ có thể thuyết phục được những người tạo ra dư luận phải xem xét lại một số chuyện hoang đường dân tộc chủ nghĩa mà từ lâu họ đã tuyên bố là chân lí phúc âm. Có lẽ lí do mạnh mẽ nhất để bắt đầu tại Đài Loan là nhà chức trách ở Bắc Kinh lo sợ rằng bất kì sự nhượng bộ nào mà họ có thể thực hiện sẽ bị lớn tiếng chỉ trích tại Đài Bắc. Như Giáo sư Zha Daojiong [Tra Đạo Quýnh] Đại học Bắc Kinh giải thích, điều đó đơn giản, đó là Cộng sản so với Quốc Dân Đảng’. Nếu chính phủ Quốc Dân Đảng (KMT), cầm quyền ở Đài Loan, phải xuống thang cuộc xung đột mang tính lịch sử nghiêm túc ở Biển Đông thì chính quyền Bắc Kinh sẽ dễ dàng hơn nhiều để làm như vậy. Chìa khóa cho một tương lai hòa bình có thể nằm trong việc xem xét trung thực và có phê phán về quá khứ.


Hình cùng chú thích của hình là của ND
========================



[1] Food and Agriculture Organization of the United Nations, Philippines, Fishery Country Profile, November 2005. Có thể xem tại ftp://ftp.fao.org/FI/DOCUMENT/fcp/en/FI_CP_PH.pdf.
[2] Tuyên bố của Trung tâm Phát triển Nghề cá Đông Nam Á ( the Southeast Asian Fisheries Development Center) tại phiên họp thường lệ thứ 9 của Tiểu ban Khoa học thuộc Ủy ban Nghề cá Tây và Trung Thái Bình Duơng (the Western and Central Pacific Fisheries Commission), 14/8/2013, Pohnpei, Micronesia.
[3] Ibid.
[4] Food and Agriculture Organization of the United Nations, Philippines, Fishery Country Profile, November 2005. Có thể xem tại ftp://ftp.fao.org/FI/DOCUMENT/fcp/en/FI_CP_PH.pdf.
[5] Ministry of Agriculture Bureau of Fisheries, China Fishery Statistics Yearbook 2011 (Beijing, 2011), quoted in Zhang Hongzhou, Chinas Evolving Fishing Industry: Implications for Regional and Global Maritime Security, RSIS Working Papers, no. 246 (Singapore, August 2012). Có thể xem tại http://www.rsis.edu/publications/WorkingPapers/WP246.pdf.
[6] Zhang Hongzhou, ‘China’s Evolving Fishing Industry: Implications for Regional and Global Maritime Security’, RSIS Working Papers, no. 246 (Singapore, August 2012). Có thể xem tại http://www.rsis.edu/publications/WorkingPapers/WP246.pdf.
[7] ‘China Starts Annual South China Sea Fishing Ban’, Xinhua, 16 May 2013. Có thể xem tạihttp://english.people.com.cn/90882/8246580.html.
[8] . Kor Kian Beng, ‘Fishing for Trouble in South China Sea’, Straits Times, 31 August 2012.
[9] Ibid.
[10] John McManus, ‘The Spratly Islands: A Marine Park’, Ambio, vol. 23 (1994), 181.
[11] Daniel Coulter, ‘South China Sea Fisheries: Countdown to Calamity’, Contemporary Southeast Asia, vol. 17 (1996), 371-88.
[12] United Nations Environment Programme, ‘Terminal Evaluation, Reversing Environmental Degradation Trends in the South China Sea and Gulf of Thailand’, 22 May 2009. Có thể xem tại http://www.unep.org/eou/Portals/52/Reports/South%20China%20Sea%20Report.pdf.
[13] Rommel C. Banlaoi, ‘Philippines-China Security Relations: Current Issues and Emerging Concerns’ (Manila, 2012).
[14] Quy định này (Tiếng Trung) có thể đọc ở đây http://www.sbsm.gov.cn/article/zxbs/xzxk/fwzn/200700/20070000001800.html.
[15] Zhiguo Gao and Bing Bing Jia, ‘The Nine-Dash Line in the South China Sea: History, Status, and Implications’, The American Journal of International Law, vol. 107 (2013), 98124.
[16] International Crisis Group, Stirring up the South China Sea (I), Asia Report, No. 223, 23 April 2012, 14.
[17] China’s CNOOC Starts Deepwater Drilling, UPI, 10 May 2012.
[18] Nayan Chanda and Tai Ming Cheung, ‘Reef Knots: China Seeks ASEAN Support for Spratly Plan’, Far Eastern Economic Review, August 1990, 11.
[19] State Council Information Office, ‘White Paper on China’s Peaceful Development’, 6 September 2011. Có thể xem tại  http://www.china.org.cn/government/whitepaper/node_7126562.htm.
[20] ‘Commentary: Turn South China Sea Dispute into ChinaVietnam Cooperation Bonanza’, Xinhua, 13 October 2013.
[21] Carl Thayer, ‘China-ASEAN Joint Development Overshadowed by South China Sea’, The Diplomat, 25 October 2013.
[22] ‘News Analysis: “Breakthrough” Helps China, Vietnam Build Trust, Boost Cooperation’, Xinhua, 15 October 2013.
[23] Clive Schofield (ed.), Maritime Energy Resources in Asia: Legal Regimes and Cooperation, National Bureau of Asian Research Special Report, no. 37, February 2012.
[24] Hasjim Djalal, Preventive Diplomacy in Southeast Asia: Lessons Learned (Jakarta, 2002), 57.
[25] Hasjim Djalal and Ian Townsend-Gault, Managing Potential Conflicts in the South China Sea: Informal Diplomacy for Conflict Prevention’, in Chester A. Crocker, Fen Osler Hampson and Pamela Aall (eds), Herding Cats: Multiparty Mediation in a Complex World (Washington, 1999), 10733.
[26] Hasjim Djalal, ‘Preventive Diplomacy in Southeast Asia: Lessons Learned’ (Jakarta, 2002).
[27] Ibid, 78.
[28] ‘Premier Li Keqiangs Keynote Speech at 1oth China-ASEAN Expo’, Xinhua, 4 September 2013. Có thể xem tại  http://www.globaltimes.cn/content/808525.shtml.
[29] Kristine Kwok, ‘China’s “Maritime Silk Road” Linking Southeast Asia Faces a Rocky Birth’, South China Morning Post, 18 October 2013.
[30] Virginia A. Greiman, ‘Resolving the Turbulence in the South China Sea: A Pragmatic Paradigm for Joint Development’, Proceedings of the International Management Development Association Twenty Second Annual World Business Congress, 25-29 June 2013, National Taipei University, Taipei, Taiwan.
[31] . Joint Submission dated 6 May 2009 by Malaysia and the Socialist Republic of VietNam to the Commission on the Limits of the Continental Shelf, through the UN Secretary-General, in accordance with Article 76, paragraph 8, of UNCLOS. Có thể xem tại http://www.un.org/Depts/los/clcs_newsubmissions_files/submission_mysvnm_33_2000.
[32] Marion Ramos, Sulu Sultan Dies; Sabah Claim Lives on, Philippines Inquirer, 21 October 2013. Có thể xem tại http://news.info.inquirer.net/510943/sulu-sultan-dies-sabah-claim-lives-on.



2 comments:

Anonymous said...

Bac Song oi, con thieu Chuong 7 "Ngoai Giao". Bac lam on giup dum. Da ta.

Huynh Phan said...

Sorry, trả lời trể. Toàn bộ quyển sách đã dịch xong, chắc bác đã biết.